Phê phán quan điểm cho rằng: Ngày nay giai cấp tư sản không còn bóc lột công nhân mà “bóc lột máy móc”?!

 Học thuyết về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là một trong những cống hiến vĩ đại của các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác – Lênin. Học thuyết đó đã thuyết giảng sự diệt vong tất yếu của chủ nghĩa tư bản và sự ra đời tất yếu của chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản. Hiện nay, các quan điểm sai trái, thù địch đang ra sức xuyên tạc hòng phủ nhận học thuyết về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.

Ngày nay do sự phát triển của cách mạng khoa học – công nghệ, sự thay thế của máy móc, robot trong sản xuất, làm cho số lượng công nhân giảm, máy móc giữ vai trò trung tâm chứ không phải công nhân, do đó có quan điểm cho rằng, giai cấp tư sản không còn bóc lột công nhân mà “bóc lột máy móc”.

Luận điểm trên hoàn toàn sai trái bởi các căn cứ sau đây:

Một là, như chúng ta đã biết một trong những phát kiến quan trọng của C.Mác trong lĩnh vực khoa học kinh tế chính trị là tìm ra tính chất hai mặt của lao động sản xuất: lao động cụ thể và lao động trừu tượng. Vận dụng lý luận đó vào quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa, C.Mác cũng đồng thời phát hiện ra tư bản bất biến và tư bản khả biến. C.Mác chỉ rõ rằng: trong quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa, để sản xuất ra hàng hóa mới, có những giá trị cũ được chuyển nguyên vẹn vào hàng hóa mới, đồng thời có những giá trị mới được sinh ra. Điều quan trọng là ở chỗ vẫn chỉ là một quá trình lao động nhưng với tính chất là lao động cụ thể, lao động của người công nhân đã chuyển nguyên vẹn các giá trị cũ vào sản phẩm lao động mới và làm cho sản phẩm đó có một giá trị sử dụng xác định; trong khi đó, cũng vẫn chỉ là quá trình lao động đó thôi nhưng với tính chất là lao động trừu tượng, người công nhân đã sáng tạo ra một giá trị mới trong đó có giá trị thặng dư. Lý luận đó hoàn toàn còn nguyên giá trị khoa học.


Hai là, ngày nay, trong các nhà máy tự động hóa, dù cho giá trị của lao động sống có giảm đi một cách tương đối so với lao động quá khứ và dù cho máy móc, các tư liệu lao động có vai trò cực kỳ quan trọng thì giá trị thặng dư vẫn chỉ do lao động sống của công nhân sản xuất ra chứ không phải do máy móc sản xuất ra.

Ba là, đúng là so với các giai đoạn kỹ thuật trước của chủ nghĩa tư bản thì trong giai đoạn tự động hóa, lao động sống được giảm thiểu một cách đáng kể, máy móc không những thay thế lao động cơ bắp mà còn thay thế cả một phần lao động trí óc của con người. Tuy nhiên cần khẳng định rằng nền sản xuất tự động hóa không phải dùng ít lao động sống đến mức như người ta tưởng. Chẳng phải là trên thực tế, trong xã hội hiện đại, tuy rất tiết kiệm việc sử dụng lao động sống, thì tổng số người lao động làm thuê vẫn cứ tăng lên. Chẳng phải là một mối lo trong tính toán kinh doanh của nhà tư bản hiện đại là chi phí tiền lương cho công nhân quá lớn và một trong những tiêu chí để nhà tư bản lựa chọn địa điểm đầu tư trên thế giới là đầu tư vào những nơi công nhân vừa có tay nghề cao lại vừa có tiền công thấp.

Bốn là, luận điểm máy móc tạo ra giá trị thặng dư và giai cấp tư sản bóc lột máy móc” là một cách nói cường điệu, có dụng ý. Trong đời sống hiện thực, người ta thấy xí nghiệp nào sử dụng máy móc hiện đại thì năng suất lao động cao hơn và nhờ đó thu được lợi nhuận nhiều hơn. Điều đó gây ra một cảm tưởng sai lầm là máy móc cũng tạo ra giá trị thặng dư và giai cấp tư sản không bóc lột công nhân mà bóc lột máy móc. Vậy, máy móc có tạo ra giá trị thặng dư không? Cũng như mọi bộ phận cấu thành khác của tư bản bất biến, máy móc không tạo ra giá trị thặng dư, mặc dù đó là nhân tố không thể thiếu của bất cứ quá trình sản xuất hiện đại nào. Máy móc dù có hiện đại đến đâu nếu không có lao động sống của người công nhân “hà hơi”, “tiếp sức”, “cải tử hoàn sinh” thì cũng chỉ là “vật chết” mà thôi. Máy móc không tự nó chạy được mà phải có người cho nó chạy, phải theo dõi quá trình vận hành của nó để xử lý những sự cố trực trặc về kỹ thuật… Nói một cách khác, tự động hóa nhưng vẫn phải có lao động sống của người công nhân làm nhiệm vụ giám sát, điều hành. Hơn thế nữa, để cho dây chuyền tự động hoạt động, xí nghiệp cần phải có một bộ máy nhân viên lo đầu vào của sản xuất, tiếp nhiên liệu đúng thời hạn… lo đầu ra của sản phẩm, quảng bá, tiếp thị, tiêu thụ. Như vậy, với nhà máy tự động hóa, sự phân bổ lao động trong nội bộ nhà máy thay đổi theo hướng phần lao động trực tiếp đứng máy, sản xuất ra sản phẩm giảm đi nhưng phần lao động dịch vụ cho việc sản xuất sản phẩm lại tăng lên.

Tóm lại, không có việc máy móc thay thế lao động sống tạo ra giá trị thặng dư và “luận điểm giai cấp tư sản bóc lột máy móc” là hoàn toàn phi lý.

Trương Văn Viên

Nhận xét